Những Trường Hợp Nào Không Được Truyền Nước

Những Trường Hợp Nào Không Được Truyền Nước

Truyền nước biển mang lại giá trị trong việc duy trì cân bằng chất lỏng và chất điện giải của cơ thể. Biết khi nào nên sử dụng và những rủi ro liên quan của việc truyền nước biển có thể giúp bệnh nhân đưa ra quyết định sáng suốt về sức khỏe và hạnh phúc của bản thân.

Truyền nước biển là gì? Có nên truyền nước biển không?

Truyền nước biển hay còn gọi là truyền tĩnh mạch là một thủ thuật y khoa dùng để đưa muối và chất điện giải vào cơ thể. Mặc dù đây là phương pháp điều trị phổ biến cho tình trạng mất nước và các tình trạng khác, nhưng vẫn có nhiều người thắc mắc về việc liệu nó có an toàn và hiệu quả cho sức khỏe hay không.

Đầu tiên, điều quan trọng là phải hiểu rằng việc truyền nước biển chỉ nên được thực hiện dưới sự giám sát của bác sĩ và tại một cơ sở y tế được trang bị tốt. Đây không phải là một phương pháp điều trị nên được thực hiện tại nhà hoặc không có hướng dẫn y tế thích hợp. Truyền nước biển thường được sử dụng trong trường hợp mất nước, mất máu do tiêu chảy hoặc nôn mửa, bỏng hoặc ngộ độc.

Thành phần chính trong dịch truyền nước biển là NaCl 0,9%, bản chất là dung dịch nước muối sinh lý có vị mặn giống nước biển. Dung dịch này đẳng trương, có nghĩa là nó có áp suất thẩm thấu tương tự như áp suất chất lỏng trong cơ thể. Natri và clo là những ion chính trong dung dịch và chúng đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì cân bằng nước và điện giải của cơ thể.

Khi cơ thể khỏe mạnh, lượng muối, đường và chất điện giải thường ở mức cân bằng. Tuy nhiên, khi một người bị ốm hoặc bị suy nhược cơ thể, mệt mỏi hoặc mất nước, các mức này có thể trở nên mất cân bằng và cần được bổ sung thông qua truyền dịch.

Nhưng điều đó có nghĩa là truyền nước biển là lựa chọn tốt nhất cho sức khỏe của bạn? Trên thực tế, trong hầu hết các trường hợp, truyền nước biển không hiệu quả bằng việc chỉ ăn hoặc uống các chất dinh dưỡng cần thiết. Truyền một chai nước muối 0,9% tương đương với việc ăn một bát canh thịt, và truyền một chai nước đường 5% chỉ tương đương với việc uống một thìa cà phê đường.

Hơn nữa, không nên sử dụng truyền nước biển như một cách để cải thiện sức khỏe tổng thể của bạn hoặc giảm bớt các triệu chứng nhỏ như mệt mỏi. Truyền nước biển là một phương pháp điều trị y tế chỉ nên được sử dụng khi được bác sĩ kê toa cho một tình trạng cụ thể.

Những trường hợp không truyền nước biển và một số lưu ý khi truyền nước biển

Đến đây, bạn đã biết được truyền nước biển là gì, truyền nước biển có tác dụng gì rồi. Nhưng bạn cần lưu ý rằng có những trường hợp không truyền nước biển cũng như một số lưu ý quan trọng bắt buộc ghi nhớ trong quá trình truyền dịch.

Đầu tiên và quan trọng nhất, những người bị suy thận cấp tính, suy thận mãn tính, tăng kali máu, urê huyết, suy tim, nhiễm toan, suy gan, viêm gan nặng hoặc chấn thương sọ não cấp tính không nên truyền dịch. Cũng cần lưu ý rằng trẻ bị sốt không nên truyền muối và đường, vì điều này có thể làm tăng nguy cơ phù não.

Ngay cả đối với những người có thể được truyền nước biển, điều quan trọng là phải biết các tác dụng phụ tiềm ẩn và theo dõi bất kỳ triệu chứng bất thường nào trong quá trình này. Điều này có thể bao gồm các phản ứng tại chỗ tiêm, phù nề, rối loạn điện giải và thậm chí là sốc phản vệ trong một số trường hợp hiếm gặp.

Để đảm bảo truyền dịch an toàn và hiệu quả, điều quan trọng là phải điều trị tại cơ sở y tế đủ tiêu chuẩn và tuân theo các hướng dẫn nghiêm ngặt trong quá trình truyền dịch. Điều này bao gồm đảm bảo vô trùng và kiểm tra đường truyền dịch để tránh tắc nghẽn hoặc hết dịch.

Hy vọng bài viết trên đây đã giúp bạn hiểu được truyền nước biển có tác dụng gì cũng như những trường hợp không truyền nước biển để tránh ảnh hưởng đến sức khỏe. Việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa cần thiết trong quá trình truyền dịch để đảm bảo kết quả tốt nhất có thể cho bệnh nhân. Và hãy nhớ rằng, trong hầu hết các trường hợp, chỉ cần ăn hoặc uống các chất dinh dưỡng cần thiết là cách hiệu quả hơn để duy trì sức khỏe của bạn.

Nhưng các bác sỹ cho rằng, việc truyền dịch rất dễ gây phù phổi, tim, thậm chí là mất mạng do sốc phản vệ.

Có thể phù phổi, não, teo não vì truyền dịch

Bệnh nhân Nguyễn Thị Vân, 60 tuổi, được đưa đến Bệnh viện Đa khoa Hà Tĩnh cấp cứu trong tình trạng hôn mê, phù phổi do truyền dịch. Người nhà bà Vân cho biết, trước đó, do thấy người mệt mỏi nên bà đã tự ý đến một phòng khám tư nhân ở gần nhà truyền dịch. Sau khi truyền hết 2 chai, bà rơi vào tình trạng nguy kịch.

Việc truyền dịch cần theo chỉ định của bác sỹ (ảnh chụp tại Bệnh viện Bạch Mai). Ảnh: P.T

Trường hợp như bà Vân không phải là hiếm. Khoa Nhi (Bệnh viện Bạch Mai) từng tiếp nhận trẻ bị phù phổi do truyền dịch quá nhiều. Thấy bé sốt kéo dài, người nhà đưa đến một cơ sở y tế gần nhà để điều trị. Bệnh nhân được truyền nước biển 3 ngày liền, đến chai thứ tư thì bé trở nặng. Rất may các bác sỹ đã cấp cứu bé kịp thời.

PGS.TS Nguyễn Tiến Dũng - Trưởng khoa Nhi (Bệnh viện  Bạch Mai) cho hay, dịch truyền có nhiều loại tùy theo tác dụng, trong đó phổ biến là loại cung cấp đường, muối và chất điện giải như glucose 5%, 10%; cung cấp năng lượng và chất dinh dưỡng... Việc một số người cứ thấy sốt, mệt mỏi lập tức nghĩ đến truyền dịch là quan niệm sai lầm.

Sốt, mệt chỉ là triệu chứng của rất nhiều loại bệnh khác nhau. Khi bác sỹ quyết định việc tiêm, truyền cho bệnh nhân sẽ phải xác định được biểu hiện mệt, sốt là do bệnh gì, bệnh ấy có cần phải truyền dịch không? Trường hợp bắt buộc phải truyền, bác sỹ cần tính toán kỹ lượng truyền chứ không thể truyền bừa bãi. Việc tự ý truyền dịch sẽ vô cùng nguy hại đến sức khỏe. Ngay cả khi người bệnh bị mất nước, bác sỹ vẫn khuyên uống nước bồi phụ tốt hơn là truyền dịch.

Theo PGS.TS Nguyễn Tiến Dũng, trước khi truyền cần phải khám tim, phổi, đo mạch… xem tim có khỏe. Khám tim không chỉ khám lâm sàng mà nhiều trường hợp phải xét nghiệm, làm điện tâm đồ mới phát hiện ra bệnh. Khi truyền dịch cần phải khống chế được tổng lượng dịch truyền vào phù hợp với tình trạng bệnh của bệnh nhân.

Nếu truyền nhiều hơn tình trạng bệnh sẽ gây phù phổi, suy tim. Ngoài ra, truyền dịch ở nhà không có đủ phương tiện để xét nghiệm bệnh nhân thừa thiếu chất gì ở trong máu. Việc bổ sung không đúng các chất dễ gây nguy hiểm đến tính mạng như bệnh nhân mất điện giải mà truyền đường sẽ làm bệnh nặng hơn, thiếu natri mà truyền đường sẽ làm máu loãng gây phù não; thừa natri mà truyền muối quá nhiều làm teo não...

Chẳng hạn, trẻ sốt do viêm phổi hay mệt do bị bệnh tim... là hai trường hợp phải hạn chế truyền dịch. Nếu lạm dụng truyền sẽ khiến tim quá tải, không chịu được dịch truyền, gây ra các tai biến. Những người già, thận yếu, việc truyền dịch còn có thể khiến phù não, tai biến trên não.

PGS.TS Nguyễn Hữu Đức (Đại học Y Dược TP HCM) cho biết, truyền dịch đưa vào cơ thể một số lượng nước lớn, các chất điện giải, các chất dinh dưỡng nên có thể gây rối loạn về chuyển hóa, gây các hiện tượng phù ở tim, thận… Kỹ thuật truyền dịch khá đơn giản nhưng nếu thực hiện không đúng thì dễ xảy ra những tai biến sốc phản vệ do tốc độ truyền quá nhanh, cơ địa bệnh nhân dị ứng với thành phần trong dịch truyền. Thậm chí, có thể lây nhiễm bệnh mạn tính như viêm gan, HIV.

Theo PGS.TS Nguyễn Tiến Dũng, chỉ nên truyền dịch khi sốt quá cao, nôn quá nhiều gây mất nước, đi ngoài mất nước như những bệnh nhân bị tiêu chảy, tụt huyết áp…; người bệnh không thể ăn, uống được. Những bệnh nhẹ không nên truyền dịch.

Nếu cơ thể mất nước mà vẫn ăn uống được thì truyền dịch không tốt hơn là mấy so với việc bù nước qua đường uống. Mọi người có thể bù nước bằng cách thông thường như với tỷ lệ 5g đường/100ml dung dịch thì việc truyền cho trẻ một chai Gglucose 5% chỉ tương đương với việc cho trẻ uống gần một thìa cà phê đường. Hay truyền một chai dung dịch muối 9% chỉ như uống một bát canh nhạt.

Các bác sỹ cũng khuyến cáo, một số người khỏe mạnh, tự ý truyền dịch hoa quả để bồi bổ sức khỏe càng phải thận trọng. Nước hoa quả là một dung dịch chứa các vitamin tổng hợp có thể cải thiện sức đề kháng, giúp ăn ngon nên chỉ dành cho những trường hợp yếu sức, mất cân bằng hoặc thiếu vitamin trầm trọng, ăn uống kém. Người khỏe truyền hoa quả có thể sinh ra “lười ăn” vì dung mao ruột thoái hóa; phù tim, thận vì đột ngột đưa vào cơ thể lượng dinh dưỡng và lượng nước quá lớn.

Theo các chuyên gia, tùy từng nhóm dịch truyền sẽ phù hợp với từng đối tượng khác nhau. Để tránh không xảy ra tai biến, trước khi truyền dịch cần được bác sỹ khám, xét nghiệm và kê toa.

Nhóm cung cấp chất dinh dưỡng bao gồm dung dịch glucose các loại 5%, 10%, 20%, 30% và các dung dịch chứa chất đạm, chất béo và vitamin chỉ nên được truyền cho những đối tượng phẫu thuật, suy dinh dưỡng, không ăn được bằng đường miệng, không tiêu hóa được thức ăn…

Nhóm cung cấp nước, các chất điện giải như dung dịch lactate ringer, natri clorua 0,9%, bicarbonate natri 1,4%... dùng trong trường hợp mất nước, mất máu khi bị tiêu chảy, bỏng, ói mửa, ngộ độc.

Nhóm đặc biệt như dung dịch chứa albumin, dung dịch dextran, haes-steril, gelofusin hay dung dịch cao phân tử... chỉ dùng trong các trường hợp cần bù nhanh chất albumin hoặc lượng dịch tuần hoàn trong cơ thể.

Tại phiên tòa sơ thẩm chiều ngày 20/3/2024, trong phần tự bào chữa cho mình, bị cáo Trương Mỹ Lan nói: “Tôi nhiều lần xin tại ngoại để làm việc với nhà đầu tư, tổ chức tài chính nước ngoài, tỷ phú nước ngoài để tái cấu trúc SCB và khắc phục hậu quả”.

Vậy, tại sao mong muốn của bà Trương Mỹ Lan không được Tòa chấp thuận? Luật sư HT Legal VN chúng tôi xin thông tin câu trả lời về trường hợp của bà Trương Mỹ Lan như sau:

- Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;

1. Tại ngoại là gì? Trường hợp nào người phạm tội không được tại ngoại?

Tại ngoại là việc cơ quan có thẩm quyền không áp dụng biện pháp tạm giam để điều tra với một người sau khi họ bị khởi tố vụ án, khởi tố bị can căn cứ vào nhân thân, tính chất, mức độ phạm tôi. Có thể do tội họ phạm chưa đến mức phải áp dụng biện pháp tạm giam hoặc họ đã thực hiện các biện pháp thay thế biện pháp tạm giam như: Bảo lĩnh, đặt tiền đảm bảo, cấm đi khơi nơi cư trú theo quy định tại Điều 121, 122, 123 BLTTHS 2015.

Còn khi người phạm tội bị áp dụng biện pháp tạm giam để điều tra, họ không được phép tại ngoại. Căn cứ Điều 119 Bộ luật Tố tụng hình sự, các trường hợp không được tại ngoại (các trường hợp tạm giam) như sau:

1. Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng.

2. Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp:

a) Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;

b) Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can;

c) Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn;

d) Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;

đ) Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.

3. Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.

4. Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ các trường hợp:

a) Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã;

c) Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này;

d) Bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.

Đây là nhóm trường hợp bị can, bị cáo thuộc trường hợp áp dụng biện pháp tạm giam. Lý do là vì những tội phạm này có mức độ nghiêm trọng cao, gây ảnh hưởng lớn đến trật tự an ninh xã hội, nếu cho tại ngoại có thể khiến bị can, bị cáo bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội.

Quay trở lại với mong muốn của bà Trương Mỹ Lan không được tại ngoại – trường hợp bắt buộc bị tạm giam theo quy định của pháp luật, theo quan điểm của Luật sư HT Legal VN như sau:

Xét theo cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố bị cáo Trương Mỹ Lan về các tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, “Rửa tiền”; “Tham ô tài sản”; “Đưa hối lộ” và “Vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng” quy định tại khoản 4 Điều 174; khoản 3 Điều 324; khoản 4 Điều 353; khoản 4 Điều 364 và khoản 4 Điều 206 Bộ luật Hình sự. Mức độ phạm tội của bị cáo Trương Mỹ Lan thuộc các tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng.

Xét về nhân thân: thời điểm bị truy tố trước pháp luật, bị cáo Trương Mỹ Lan 68 tuổi (không đang bị bệnh nặng hoặc chữa trị bệnh) và mục đích của việc xin tại ngoại để khắc phục hậu quả. Việc khắc phục hậu quả là nghĩa vụ mà bị cáo bắt buộc phải thực hiện, không phải là căn cứ áp dụng tại ngoại. Trả lời về việc tại ngoại khắc phục hậu quả, chủ tọa phiên tòa: "Nếu có nhà đầu tư, tổ chức tài chính nước ngoài, tỷ phú nước ngoài nào đó như bị cáo nói muốn khắc phục hậu quả giúp bị cáo thì HĐXX tạo điều kiện tối đa để bị cáo được gặp ngay tại giai đoạn xét xử này. Tuy nhiên, bị cáo phải nói là nhà đầu tư nước ngoài nào và có thể thông qua luật sư làm đơn gửi HĐXX xem xét chứ không thể nói chung chung".

Như vậy, đối với trường hợp bị cáo Trương Mỹ Lan không được tại ngoại theo quy định của pháp luật. Việc có được phép tại ngoại hay không cần tuân thủ chặt chẽ các quy định của pháp luật nhằm đạt được mục đích các biện pháp đặt ra đồng thời đảm bảo quyền con người, quyền công dân.

VP1: 37/12 Hẻm 602 Điện Biên Phủ, Phường 22, quận Bình Thạnh, Tp. Hồ Chí Minh (Bên cạnh UBND phường 22)

VP2: 207B Nguyễn Phúc Chu, Phường 15, quận Tân Bình, Tp. Hồ Chí Minh

VP3: Số 5 Ngách 252/115 phố Tây Sơn, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Tp. Hà Nội

Email: [email protected]         Hotline: 0961614040 - 0922224040 - 0945174040

Hỏi: Để chuẩn bị cho kế hoạch tuyển công dân tham gia nghĩa vụ quân sự năm 2022, hiện nay nhiều địa phương đã bắt đầu thực hiện kế hoạch khám sức khỏe cho công dân nằm trong độ tuổi tuyển quân. Xin hỏi, những đối tượng nào được tạm hoãn gọi nhập ngũ trong năm 2022?

Nguyễn Nhật Thanh (Phường 2, TP. Bạc Liêu)

Trả lời: Theo Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2015, tại điểm g khoản 1 Điều 41 quy định tạm hoãn gọi nhập ngũ đối với học sinh, sinh viên như sau:

Đang học tại cơ sở giáo dục phổ thông; đang được đào tạo trình độ đại học hệ chính quy thuộc cơ sở giáo dục đại học, trình độ cao đẳng hệ chính quy thuộc cơ sở giáo dục nghề nghiệp trong thời gian một khóa đào tạo của một trình độ đào tạo.

Theo đó, tất cả các công dân trong độ tuổi gọi nhập ngũ từ đủ 18 đến hết 25 tuổi đang học tại cơ sở giáo dục phổ thông; đang được đào tạo trình độ đại học hệ chính quy thuộc cơ sở giáo dục đại học, trình độ cao đẳng hệ chính quy thuộc cơ sở giáo dục nghề nghiệp thì được miễn tham gia nghĩa vụ quân sự trong thời gian đi học.

Ngoài ra, công dân nam được đào tạo trình độ cao đẳng, đại học đã được tạm hoãn gọi nhập ngũ trong thời gian một khóa đào tạo của một trình độ đào tạo nhưng vẫn chưa quá 27 tuổi nếu có giấy triệu tập tham gia nghĩa vụ quân sự thì vẫn phải thực hiện nghĩa vụ quân sự.

Những trường hợp được tạm hoãn tham gia nghĩa vụ quân sự: Chưa đủ sức khỏe phục vụ tại ngũ theo kết luận của Hội đồng khám sức khỏe; là lao động duy nhất phải trực tiếp nuôi dưỡng thân nhân không còn khả năng lao động hoặc chưa đến tuổi lao động; trong gia đình bị thiệt hại nặng về người và tài sản do tai nạn, thiên tai, dịch bệnh nguy hiểm gây ra được UBND cấp xã xác nhận; một con của bệnh binh, người nhiễm chất độc da cam suy giảm khả năng lao động từ 61 - 80%; có anh, chị hoặc em ruột là hạ sĩ quan, binh sĩ đang phục vụ tại ngũ; hạ sĩ quan, chiến sĩ thực hiện nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân; người thuộc diện di dân, giãn dân trong 3 năm đầu đến các xã đặc biệt khó khăn theo dự án phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước do UBND cấp tỉnh trở lên quyết định; cán bộ, công chức, viên chức, thanh niên xung phong được điều động đến công tác, làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của pháp luật; dân quân thường trực.